Tôi cho rằng có nhiều khả năng. Có thể là giàn khoan này sẽ tiếp tục được đưa tới vị trí hiện nay của giàn khoan Hải Dương-981. Cũng có thể giàn khoan này sẽ ở trong vùng biển gần đảo Hải Nam trước khi China rút giàn khoan Hải Dương-981. Hải Dương-981 không ở một vị trí kể từ khi được triển khai. Ít ngày sau khi được triển khai vào vùng biển gần Hoàng Sa, nó đã được kéo cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng Đông Đông Bắc. China có thể nói “chúng tôi không tìm thấy gì” và chúng sẽ kéo tới giàn khoan vị tới vị trí mới.
Cũng có khả năng giàn khoan thứ hai sẽ được kéo tới những lô dầu khí mà Việt Nam chưa khai thác. Ngoài ra, có khả năng khác là giàn khoan có thể được kéo tới vùng biển của Philippines, của Malaysia, hay vùng biển Indonesia, trong “đường 9 đoạn”. Tất cả các khả năng đều có thể, thậm chí là nó có thể được kéo tới Thái Bình Dương.
Có hai khả năng. Nếu giàn khoan được kéo tới Thái Bình Dương, trong trường hợp này, căng thẳng giữa Việt Nam và China có thể được giảm đôi chút. Khả năng thứ hai là giàn khoan nằm trong vùng biển của Việt Nam thì mối quan hệ giữa Việt Nam và China sẽ còn căng thẳng hơn, thậm chí là sau khi các quan chức cấp cao của hai bên, với phía China là Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì, người từng là Bộ trưởng Ngoại giao China, đã gặp nhau vào ngày 18/6.
Tôi cho rằng kể từ năm 2006 China đã dùng chiến lược “chiếm dần từng bước”, nghĩa là thực hiện các bước đi cụ thể, vững chắc, không thể lay chuyển trên Biển Đông, để chiếm vùng biển này, để cuối cùng thế giới công nhận “đường lưỡi bò” là của chúng
Nhưng quan điểm này không thể chấp nhận được với các nước ASEAN, các nước có bờ biển giáp với Biển Đông và không thể chấp nhận với cả thế giới. Bởi chỉ cần nhìn vào châu Âu, chúng tôi có 6 công ty thương mại lớn hoặc là đi qua Biển Đông hoặc là có hoạt động trên Biển Đông, ví dụ như, tàu Viking 2 Việt Nam thuê của công ty Pháp, Bourbon Group, tập đoàn chuyên về các hoạt động trên biển, như cứu nạn, lắp đặt cáp dưới lòng biển…
Khi China chiếm các đảo trên Trường Sa, trong đó có đảo Gạc Ma, của Việt Nam, vào tháng 3/1988, cả thế giới thức dậy trong bất ngờ. Nhưng China đã có kế hoạch lâu dài để chiếm Biển Đông và cả Biển Hoa Đông. Chúng có rất nhiều chiêu trò. Chúng là “ảo thuật gia” với chiếc mũ mà mỗi lần chúng rút về chúng ta không biết chúng có gì trong mũ, trong túi quần, túi áo chúng, nhưng chúng ta luôn biết là có điều bất ngờ. Đó là lý do vì sao các nước phải lên tiếng mỗi khi China có động thái trên Biển Đông. Nếu các nước ASEAN khua trống “đủ lớn” thế giới sẽ lắng nghe và gây áp lực với China.
Vấn đề là China cố gắng giữ cho vấn đề Biển Đông chỉ là vấn đề khu vực, nhưng nó không thể là vấn đề khu vực được bởi từ ngày 9/5/2009, khi chúng đệ trình “đường 9 đoạn”, theo đó tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông lên Liên hợp quốc, thì tự bản thân vấn đề đã được quốc tế hóa rồi.
Tôi cho rằng đây có thể là phản biện chống lại China, không chỉ Việt Nam mà cả Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei có thể sử dụng. Các nước có thể nói: China không muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông nhưng sự quốc tế hóa đã được thực hiện bởi ít nhất 2 lần China đã gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Tôi đã từng nói với đồng nghiệp của bạn ở Paris rằng Việt Nam là đất nước “trống đồng” nên tôi nghĩ các bạn hãy “gõ trống” để cả thế giới thấy được vấn đề. ASEAN cũng cần phải đoàn kết hơn để dẫn đầu cuộc vận động khắp thế giới chống lại China
Nếu cuộc khủng hoảng Ukraine đã không xảy ra thì có thể Mỹ và Nga sẽ mang lại sự cân bằng ở phương Đông và China có thể sẽ “bớt ầm ĩ” hơn như bây giờ.
Tôi cho rằng Việt Nam nên kiện China đúng như những gì Philippines đang làm, thách thức tính xác thực của “đường 9 đoạn” theo Luật quốc tế bởi “đường 9 đoạn” này cắt vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam và các nước khác.
Việt Nam cũng nên hỏi thêm kinh nghiệm của Philippines. Sau khi China phê chuẩn Công ước luật biển, vào tháng 8/2006, chúng đã gửi tuyên bố loại bỏ một số trường hợp được đưa ra tòa án quốc tế, liên quan đến các vùng chồng lấn quy định đâu là vùng biển của chúng và của các nước láng giềng. Nhưng tuyên bố này không thể “che chắn” cho được mọi khả năng và Philippines đã tìm ra Phụ lục số 7 của Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) và Điều khoản 298 về khả năng đưa vụ việc ra tòa án quốc tế về Công ước luật biển.
Philippines có thể kiện “đường lưỡi bỏ” China lên tòa án quốc tế về luật biển là bởi họ biết họ tuân thủ theo luật của Liên hợp quốc. Việt Nam nên làm điều tương tự. China dĩ nhiên sẽ lớn tiếng phản đối, nói rằng “Việt Nam không tôn trọng luật biển quốc tế”, nhưng China thừa biết chúng mới là nước không tôn trọng và thừa biết các bạn, Việt Nam, cũng như Philippines và các nước khác mới là những nước tôn trọng luật biển.
Bằng chứng lịch sử tất nhiên có giá trị. Bản đồ “đường 9 đoạn” được in vào năm 1947. Nhưng phải đến tháng 5/2009 China mới gửi công hàm về “đường 9 đoạn” này lên Liên hợp quốc, tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Và nó được chính thức đưa ra sau khi China phê chuẩn UNCLOS. Cần phải xem xét đến việc China đưa công hàm về “đường 9 đoạn” sau khi phê chuẩn UNCLOS. Nếu China có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền của chúng, chúng đã đồng ý đứng ra trước tòa án quốc tế.
Trong một vụ kiện tòa án quốc tế luôn xem xét các bằng chứng lịch sử. Nhưng các bằng chứng lịch sử đó phải được chứng minh, được khẳng định bởi các chuyên gia có tiếng. China luôn nói đến bằng chứng lịch sử của “đường 9 đoạn” nhưng bằng chứng của chúng đâu?
Không tôi không nghĩ tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Cùng lắm là “nửa đụng độ”. Bởi nếu chiến tranh xảy ra, Mỹ buộc phải nhảy vào can thiệp và khi đó họ, cả Mỹ và China, sẽ tự phá hủy chính họ đúng theo nghĩa đen, như chúng ta đã từng trải qua trong Thế chiến II.
Hơn nữa các tuyến đường biển trên Biển Đông nhộn nhịp gấp 3 lần Kênh đào Suez, gấp 6 lần Kênh đào Panama. Hầu hết tàu thương mại tới China là đi qua những tuyến đường này. Sẽ không ai muốn có chiến tranh xảy ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã cho nhận xét